Đôi điều về
thể thơ Lục Bát
Đinh Thường
Nói đến thơ Lục
Bát là nói đến một sản phẩm văn hoá tinh thần độc đáo của dân tộc Việt. Hầu hết
những người làm thơ đều đã ít nhất một lần làm thơ Lục Bát. Đã có nhiều tác giả
trở thành nổi tiếng với những tác phẩm thơ lục bát mà tiêu biểu nhất là Nguyễn
Du với kiệt tác Truyện Kiều, sau này có Nguyễn Bính, Tố Hữu, Huy Cận, Nguyên
Sa, Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn… cũng đã gặt hái được thành công từ thể
thơ Lục Bát.
Thiết nghĩ
tìm hiểu đôi điều về thể thơ Lục Bát cũng là điều cần thiết cho cả người làm
thơ và công chúng yêu thơ.
1-
Thơ Lục Bát là gì?
Thơ Lục Bát
là thể văn vần mỗi cặp gồm một câu sáu tiếng và một câu tám tiếng liên tiếp
nhau. Thông thường bài thơ mở đầu bằng câu sáu chữ và kết thúc bằng câu tám chữ.
Một bài thơ Lục
Bát thường không bị giới hạn bởi số câu, có thể gồm hai câu nhưng cũng có thể
kéo dài tới hàng ngàn câu như Truyện Kiều của Nguyễn Du với 3254 câu (1627 câu
lục và 1627 câu bát).
2-
Thơ Lục Bát có tự bao giờ?
Người ta đã cất
công đi tìm lời giải cho câu hỏi này. Song đáp án vẫn chỉ là những giả thuyết.
Bởi Lục Bát xa xưa được lưu truyền tới ngày nay thông qua hình thức truyền miệng
nên thật khó có được văn bản Lục Bát đầu tiên.
Nhưng có điều
chắc chắn rằng: "Lục Bát là đứa con cưng của tiếng Việt, tiếng Việt đã
nuôi lớn Lục Bát; đồng thời chính Lục Bát cũng đã góp phần làm cho tiếng Việt
hay hơn, đẹp hơn".
3-
Luật thanh trong thơ Lục Bát:
Cũng như thơ
Đường luật, thơ Lục Bát tuân thủ quy tắc “nhất, tam, ngũ bất luận; tứ, nhị, lục
phân minh”. Nghĩa là các tiếng 1,3,5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các
tiếng 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ.
-
Câu lục: theo thứ tự tiếng 2-4-6 là Bằng
(B) – Trắc (T) – Bằng
-
Câu bát: theo thứ tự tiếng 2-4-6-8 là B
– T – B – B
Ví
dụ 1:
Tôi nghe nẫu cả những chiều
B T B
Câu thơ ngã xuống đổ xiêu mái chùa.
B T B
B
(Cuốc
kêu – Đồng Đức Bốn)
Ví
dụ 2:
Nắng chia nửa bãi chiều rồi
B T
B
Vườn hoang trinh nữ khép đôi lá rầu.
B T B B
(Ngậm
ngùi – Huy Cận)
Thế
nhưng đôi khi có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, có thể biến
nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên, còn câu bát lại theo thứ tự T
- B - T - B những câu thơ như thế này người ta gọi là Lục Bát biến thể.
Ví
dụ:
Có sáo thì sáo nước trong
T
T B
Đừng sáo nước đục đau lòng cò con.
T T B B
(Ca dao)
hay:
Con cò lặn lội bờ sông
B
T B
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.
T B T B
(Ca dao)
4-
Cách gieo vần trong thơ Lục Bát:
*
Về vần: Có hai loại vần là vần chính và vần thông.
- Vần chính còn gọi là
“vần giầu” hoặc “vần sát” gồm những tiếng cùng một khuôn âm như “ao” với “sao”,
“mờ” với “tơ”, “tơ” với “chờ”…
Ví dụ:
Đêm
qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Buồn
trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
(Ca
dao)
- Vần thông còn gọi là
“vần nghèo” hoặc “vần gượng”, gồm những tiếng hợp nhau về thanh nhưng chỉ tương
tự với nhau về âm như “đình” với “cành”, “sen” với “xin”…
Ví dụ:
Hôm
qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em
được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà…
(Ca dao)
*
Gieo vần trong thể thơ Lục Bát như sau:
-
Chữ cuối của câu lục phải vần với chữ thứ sáu của câu bát tiếp theo.
-
Chữ cuối của câu bát phải cùng vần với chữ cuối của câu lục kế tiếp.
Ví dụ:
Lần
đầu ta ghé môi hôn
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang
Vườn
xanh, cỏ biếc, trưa vàng
Nghìn cây phượng vĩ huy hoàng trổ bông.
(Nụ hôn đầu
– Trần Dạ Từ)
Trong thể thơ
Lục Bát biến thể cách gieo vần cũng không thay đổi, nhưng trường hợp câu bát của
cặp câu có thanh là T – B – T – B thì tiếng
thứ sáu câu lục trên nó vần với tiếng thứ tư của câu đó.
Ví dụ:
Con
cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
(Ca
dao)
5- Tiểu đối trong thơ Lục Bát:
Đó là đối
thanh trong hai tiếng thứ sáu (hoặc thứ tư) của câu bát với tiếng thứ tám câu
đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược
lại.
Ví dụ:
Đèo
cao con suối ngập ngừng
Nắng thoai thoải nắng, chiều lưng lửng chiều.
(Rừng
chiều – Nguyễn Bính)
hay:
Nhà
quê có cái giếng đình
Trúc xinh cứ đứng một mình lẳng lơ.
(Đồng Đức Bốn)
6-
Cách ngắt nhịp trong thơ Lục Bát:
Nhịp thơ là
cái được nhận thức thông qua toàn bộ sự lặp lại có tính chu kỳ, cách quãng hoặc
luân phiên theo thời gian của những chỗ ngừng, chỗ ngắt và của những đơn vị văn
bản như câu thơ, khổ thơ, thậm chí đoạn thơ.
Nhịp thơ giúp
người nghe, người đọc cảm nhận được thơ một cách chính xác hơn. Thơ lục bát
thông thường ngắt nhịp chẵn là 2/4 (2/2/2, 4/2) hoặc 4/4 (2/2/4, 2/2/2/2,
4/2/2).
Ví dụ:
Trời
mưa ướt bụi/ ướt bờ
Ướt cây/ ướt lá/ ai ngờ ướt em.
(Ca
dao)
Này
chồng/ này mẹ/ này cha
Này là em ruột/ này là em dâu.
(Truyện
Kiều - Nguyễn Du)
Nhưng đôi khi
để nhấn mạnh hay diễn tả những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột, tâm
trạng khác thường, bất định… thì người ta đổi thành nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5…
Ví dụ:
Người
quốc sắc/ kẻ thiên tài
Tình trong như đã/ mặt ngoài còn e
(Truyện
Kiều - Nguyễn Du)
Buồng
không/ lặng ngắt như tờ
Dấu xe ngựa/ đã rêu lờ mờ xanh.
(Truyện
Kiều - Nguyễn Du)
7-
Những khuyết điểm thường gặp ở một số bài Lục Bát và cách khắc phục:
Làm một bài
thơ Lục Bát thì dễ, nhưng làm một bài thơ Lục Bát hay thì khó vô cùng. Nguyên
nhân:
- Thơ Lục Bát
là thể thơ có nhiều vần bằng. Theo luật trên thì trong mười bốn chữ của một cặp
thơ thì chỉ có 5 chữ là tiếng trắc. Vì vậy, nếu không khéo, bài thơ dễ trở nên
nghèo nàn về giai điệu và mang vẻ ê a của những bài vè.
- Diện tích của
một cặp thơ quá rộng, trong phạm vi 14 chữ nhà thơ dễ có khuynh hướng kể lể dài
dòng. Do đó dẫn tới việc lạm dụng vai trò đẩy đưa của câu lục khiến câu thơ trở
thành thừa thãi và bài thơ bị loãng hoặc sử dụng vá víu bốn chữ cuối của câu
bát.
Ngoài hai nguyên nhân trên, do đòi hỏi phải gieo cùng vần ở chữ cuối
câu bát, chữ cuối câu lục kế tiếp, rồi chữ thứ sáu của câu bát tiếp theo khiến
nhiều lúc nhà thơ bị lúng túng trong lúc chọn chữ nên dễ phải chọn chữ gượng gạo
để đáp ứng quy luật. Chỉ cần vài ba chữ gượng gạo cũng đủ làm hỏng bài thơ.
Để khắc phục
những khuyết điểm trên người làm thơ cần:
- Cố gắng biến
câu lục thành một câu độc lập để tránh nguy cơ câu thơ bị thừa thãi.
- Thỉnh thoảng
nên dùng tiểu đối trong cả hai câu, đặc biệt là câu bát. Tiểu đối là hình thức
đối xứng trong một câu thơ. Theo hình thức này, câu thơ được chia thành hai vế
bằng nhau, 3/3 cho câu lục và 4/4 cho câu bát.
Ví dụ:
Mai
cốt cách/ tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ/ mười phân vẹn mười.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
hoặc:
Vầng
trăng ai sẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc/ nửa soi dặm trường.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
- Cố gắng cô
đọng bài thơ, tránh khuynh hướng kéo dài lê thê.
- Không nên
câu nệ quá đáng về vần, vần chính cũng hay mà vần thông cũng tốt miễn là câu
thơ trôi chảy tự nhiên không bị gò bó.
- Bài thơ phải
gây được cảm xúc cho người đọc.
8-
Có nên làm mới thơ Lục Bát?
Làm thơ nói
chung, bản chất của nó là công việc sáng tạo. Cho nên đổi mới thơ cũng là điều
cần thiết. Điều này đã được thể hiện rõ qua tiến trình phát triển của thơ ca
các thời kỳ.
Song đối với các thể thơ như thơ Đường luật, Lục Bát, Song Thất Lục
Bát… có quy định niêm luật chặt chẽ nói không nên là chưa hẳn đúng, mà nói nên
ta sẽ đứng trước yêu cầu đổi mới như thế nào, đổi mới nội dung hay đổi mới hình
thức.
Hiện nay có
khá nhiều người dụng công làm mới hình thức thơ Lục Bát bằng cách lên xuống
dòng mang tính thủ pháp nhưng cũng có người cố tình lên xuống dòng một cách tuỳ
tiện gây phản cảm cho người đọc. Có nhiều người chịu khó tìm tòi sử dụng ngôn từ
mới, nhưng cũng không ít người quen sử dụng những từ ngữ sáo mòn… Về nội dung,
cũng có rất nhiều người làm thơ đưa những vấn đề mới của đất nước, của thời đại
vào thơ, nhưng cũng có người vẫn mải miết với chuyện muôn năm cũ…
Tôn trọng và
khuyến khích mọi khả năng sáng tạo là trách nhiệm và lương tâm của toàn xã hội.
Đối với thơ Lục Bát, những sáng tạo tích cực luôn được độc giả đón nhận một
cách trân trọng.
“Nên hay
không nên làm mới thơ Lục Bát?” Câu hỏi này bỏ ngỏ cho người làm thơ Lục Bát
cũng như công chúng yêu thơ Lục Bát.
Những năm gần
đây, nhiều nhà thơ, nhà văn và những người tâm huyết vơí thơ Lục Bát đã nghĩ tới
một ngày nào đó thơ Lục Bát sẽ được công nhận là “Quốc thơ”, sẽ được công nhận
là “Di sản văn hoá thế giới”. Như một lẽ tự nhiên, những tâm hồn Việt chân
chính luôn ủng hộ ý định này.
Người thực hiện
bài viết này chỉ nói lại những điều mà các học giả, các nhà thơ, nhà văn đã
nói, đã viết. Hy vọng nâng thêm được phần nào tình yêu của bạn đọc dành cho thơ
Lục Bát cũng là thỏa nguyện lắm rồi.
Thông tin
trên chỉ mang tính chất tham khảo
Nguồn: lucbathp.vnweblogs.com
0 nhận xét:
Đăng nhận xét