Thi pháp thể thơ trong văn học dân gian
Bùi
Thị Kim Phượng
Thi pháp là
những gì làm nên tính độc đáo riêng biệt về phương diện phẩm chất nghệ thuật của
tác phẩm, tác giả.
Thi pháp Văn
học dân gian là toàn bộ các đặc điểm về hình thức nghệ thuật, về phương thức và
thủ pháp miêu tả, biểu hiện về cách cấu tạo đề tài, cốt truyện, phương pháp xây
dựng hình tượng con người…trong tất cả các thể loại trong đó thi pháp ca dao có
những đặc trưng riêng biệt, đặc biệt là thể thơ trong ca dao.
Đọc toàn bộ
sáng tác ca dao người ta dễ dàng nhận ra có ba thể thơ tác giả dân gian thường
sử dụng để sáng tác. Vậy đó là những thể thơ nào và cách sử dụng ra sao?
1. Thể thơ lục bát
Thể thơ lục
bát còn gọi là thẻ thơ sáu-tám bao gồm dòng trên sáu tiếng và dòng dưới tám tiếng.
Một bài lục bát có số dòng không hạn định, vần bằng; tiếng cuối của câu lục hiệp
với tiếng thứ sáu của câu bát, tiếng thứ sáu của câu bát hiệp với tiếng của câu
lục tiếp; cứ như thế đến hết bài lục bát.
Ví dụ:
Trên
trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trẵng, xung quanh mây vàng
Ước
gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây
dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nành rửa chân…
Đa số ca dao
được sáng tác theo thể lục bát. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu có hơn 90%
lời thơ trong ca dao được sáng tác bằng thể thơ này. Nhịp điệu thơ lục bát về
cơ bản là nhịp chẵn 2/2/2, 2/4/2, hoặc 4/4 để diễn tả những tình cảm thương
yêu, buồn đau…
Người
thương/ ơi hỡi/ người thương
Đi đâu/ mà để/ buồn hương/ lạnh lung
nhưng khi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột
ngột hay tâm trạng bất thường, bất định thì có thể chuyển sang nhịp lẻ 3/3,
1/5, 3/5…đây là một dạng của lục bát biến thể:
Chồng
gì anh/ vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây
Lục bát biến
thể là « những câu ca dao có hình thức lục bát nhưng không khít rịt trên sáu dưới
tám mà có sự co giãn nhất định về âm tiết »( dẫn theo Lê Đức Luận), về vị trí
hiệp vần…Hiện tượng lục bát biến thể là vấn đề đáng chú ý trong ca dao, chúng
ta có thể xem xét một số trường hợp:
a.
Câu lục biến thể tăng tiếng :
- Có khi là câu
cảm:
Con
gà rừng tốt mã khoe lông
Chẳng cho đi chọi, nhốt lồng làm chi !
Thầy
mẹ ơi, con đã đến thì,
Mười bảy mười tám chẳng cho lấy chồng
Bây
giờ người có, con không
Thấy chúng, thấy bạn, cực lòng con thay!
- Có
khi khi sử dụng số đếm biểu thị không gian, thời
gian:
Ba
bốn bữa rày anh có bụng trông
Kẻ lên người xuống cũng không thấy nàng.
…….
Phần lớn câu
lục biến thể tăng tiến đều bắt nguồn từ dụng ý nghệ thuật của tác giả dân gian
mà cách nói phổ biến là : giảng giải, phân trần. Điều này buộc phải kéo dài câu
và dùng nhiều vế câu cùng một dòng thơ. Một số câu lục biến thể có sự chêm xen
các từ khẩu ngữ đệm vào, đây là một đặc điểm của thơ hát nói.
b.
Câu lục biến thể giảm số tiếng
Loại biến thể
này lời ca như những câu châm ngôn, có lời như một tục ngữ. Lời thơ xúc tích,
hàm nghĩa mang tính triết lý nhân sinh, những nhận xét sắc sảo về những vấn đề
cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu.
-
Mật
ngọt chết ruồi
Ai
mà đến đấy thời người say sưa
-
Người
khôn chóng già
Người
dại lẩn quất vào ra tối ngày.
-
Thương
mài nhớ liều
Như
ai dán đạo bùa yêu trong lòng
c.
Câu bát biến thể tăng tiếng
Thường ở dạng
này thông tin thường chứa nhiều thể hiện sự suy tưởng diễn giải, giữa hai vế
câu có sự liên tưởng hoặc tương ứng về nghĩa. Khác với câu lục, câu bát có thể
kéo dài tự do có thể là vì do đặc trưng về số dòng, số tiếng của thơ lục bát.
-
Gái
đâu có gái lạ lùng
Chồng chẳng nằm cùng, nổi giận
đùng đùng ném chó xuống ao.
-
Ta
rằng ta chẳng có ghen
Chồng ta, ta giữ, ta nghiến, ta
nghiền, ta chơi.
-
Hoa
kia thơm lửng, thơm lừng
Dặn con ong kia đừng chởi nhởi, dặn
con bướm đừng xôn xao.
Câu bát biến
thể giảm tiếng số lượng không đáng kể nên không được xem xét ở đây.
d.
Cả hai câu biến thể
Mang những đặc
trưng chung của kiểu câu lục và câu bát biến thể và có những đặc điểm sau như
câu suy luận nhiều vế, câu kết hợp nhiều kiểu câu, khuôn lục bát không rõ ràng,
câu nặng tính khẩu ngữ, thường là câu dồn chứa nhiều thông tin, ranh giới câu lục
thường xâm lấn câu bát hoặc ranh giới chức năng của hai câu không rõ ràng.
- Hạt lúa vàng, hạt thóc cũng vàng
Anh yêu em, bác mẹ, họ hàng cũng
yêu.
- Một mai con cóc lết, con ếch bò
Con nai quỳ, con thỏ chạy một giò,
em hỡi có nên ?
-Đêm năm canh thổn thức, ngày sáu
khắc ra vào
Tôi buồn riêng vì phận phòng đào lẻ
loi.….
Từ những đặc
trưng cấu trúc ngữ nghĩa trên có thể thấu về cơ bản thể thơ lục bát vẫn là thể
thơ nền nã, chỉnh chu với những quy định rõ ràng về vần nhịp, về số tiếng mỗi
dòng thơ, về chức năng đảm trách của mỗi câu trong thể. Tuy vậy cũng có lúc câu
lục tràn sang câu bát, câu lục và câu bát dài quá khổ, có khi xê dịch phối
thanh, hiệp vần…đó là dạng lục bát biến thể. Sự biến đổi đó là do nhu cầu biểu
đạt tình cảm ngày càng phong phú, đa dạng phá vỡ khuôn hình 6/8 thông thường.
Tuy nhiên dù phá khuôn hình, âm luật, cách gieo vần của thể thơ lục bát cơ bản
vẫn giữ nguyên. Đó là dấu hiệu đặc trưng cho ta nhận biết nó vẫn là thể lục
bát.
2 Thể song thất lục bát hay lục
bát kết hợp
Đây là thể
thơ kết hợp giữa thể song thất và thể lục bát
-Thứ nhất là
dạng song thất lục bát ở dạng này bài thơ ít nhất là một khổ bao gồm hai dòng đầu
là 7, hai dòng sau là 6/8 :
Thang
mô cao/ bằng thang danh vọng
Nghĩa mô trọng / bằng nghĩa chồng con
Trăm
năm nước chảy đá mòn
Xa nhau nghìn dặm dạ còn nhớ thương
-Thứ hai là dạng
lục bát gián thất, nghĩa là hai câu 6/8 rồi đến hai câu 7:
Trèo
lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ
tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng rồi anh tiếc lắm
thay.
……
- Dạng thứ ba
là hai câu lục bát đầu cuối, xen giữa là hai câu thất:
Đêm
qua nguyệt lặn về tây
Sự tình kẻ đấy người đây còn dài
Trúc
với Mai/Mai về Trúc nhớ
Trúc trở về/ Mai nhớ Trúc không
Bây
giờ kẻ Bắc người Đông
Kể sao cho xiết tấm lòng riêng tư.
Thể thơ này
thường lặp đi lặp lại, cuộn trào như ngọn sóng phù hợp cho việc diễn tả tâm trạng
buồn đau của nhân vật trữ tình. Thể song thất và lục bát kết hợp nhau là cho
tình cảm vốn đa chiều, phức tạp được thể hiện có hiệu quả rõ rệt với cách nói
đa giọng, nhiều cung bậc và gam màu. Chính những đặc trung của thể thơ góp phần
thể hiện nội dung của bài ca dao được sâu sắc và diễn đạt nhiều chiều cung bậc
cảm xúc của chủ thể trữ tình.
3. Thể vãn
Thể vãn là đặc
trưng trong hát dặm Nghệ Tĩnh. Mỗi câu thơ thường gồm 4,5,6 chữ và vần chân :
Công đôi ta thề thốt
Kể đã mấy niên rồi
Lòng đã quyết lúa đôi
Nhất ngôn nói hẳn lời
Đừng bốn chốn ba nơi
Đững trăng gió chào mời
Trăng nhiều trăng rạng rỡ
Trăng nhiều đèn rạng rỡ
Thể vãn kết hợp
với thể lục bát làm cho tiết tấu và vần điệu thơ phong phú, có khả năng diễn đạt
những cung bậc khác nhau của tình cảm.
Nào khi mô em nói với anh
Sông cạn mà tình không cạn
Vàng mòn mà nghĩa không mòn
Nay chừ nước lại xa non
Đêm nằm tơ tưởng héo hon ruột tằm
Thể lục bát kết
hợp với thể vãn tạo cho bài ca có thế vững chắc, là điểm nhẫn kết vấn đề, ngăn
lại dòng kể lan man của thể vãn.
Tháng
giêng tháng hai, tháng ba, tháng bốn
Tháng
khốn, tháng nạn
Đi
vay, đi dạm
Được
một quan tiền
Ra
chợ Kẻ Giêng
Mua
con gà mái về nuôi
Nó
đẻ ra mười trứng
Một
trứng: ung
Hai
trứng: ung
Ba
trứng: ung
Bốn
trứng ung…
…
Chớ
than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi lên cây.
Ngoài ra còn
có thể hỗn hợp, thể này kết hợp các đặc trưng của các thể khác nhằm diễn đạt
nhiều cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Trong ca dao, thể này sử dụng
không nhiều.
Nói tóm lại,
đặc trưng thể thơ trong ca dao suy cho cùng là diễn đạt tâm trạng nhiều chiều của
nhân vật trữ tình. Tuy theo cảm xúc, cung bậc mà chọn lựa một thể thơ phù hợp.
Thông thường người bình dân hay mượn thể loại văn vần này để bày tỏ nỗi lòng,
tâm trạng của mình trong cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu… do vậy thể thơ chủ yếu
của ca dao vẫn là thể lục bát. Vì thể thơ này có khả năng diễn đạt tất thảy những
cung bậc cảm xúc mà những con người thấp cổ bé họng không biết chia sẻ cùng ai.
Việc sang tạo thể thơ độc đáo này thể hiện đời sống tinh thần phong phú của người
bình dân, rất nhiều nhà thơ thành công nhờ thể thơ này. Ngày nay thể lục bát trở
thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét