Thử
tìm hiểu thơ Lục Bát Việt Nam
sonlu
"Yêu nhau cởi áo trao nhau
Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió
bay"
Ca dao
Chữ "Ca
dao" là thuật ngữ thơ của Việt Nam, từng chữ rời của thuật ngữ này có
nghĩa giống như chữ "ca" và chữ "dao" trong Kinh Thi của
Trung Hoa.
Kinh Thi, phần
Ngụy Phong, bài Viên hữu có câu: "Tâm chi ưu hữu, ngã ca thả dao"
(nghĩa là: Lòng ta buồn, ta ca và dao).
Sách Mao truyện
viết: "Khúc hợp nhạc viết ca, đô ca viết dao" ( nghĩa là : Khúc hát
có nhạc đệm theo lời gọi là ca, còn hát trơn thì gọi là dao).
"CA DAO
là những bài hát ngắn lưu hành trong dân gian, thường tả tính tình, phong tục của
người bình dân". (Dương Quảng Hàm - Việt Nam Văn Học Sử Yếu)
Ca dao Việt
Nam có những câu bốn chữ, năm chữ, sáu tám, hay bẩy sáu tám,..., đều có thể
"ngâm được nguyên câu", không cần tiếng đệm, như người ta ngâm thơ vậy.
Phần lớn ca
dao được nhiều người thuộc là những câu sáu tám, chẳng hạn :
Đường
vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Tốt
gỗ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người
Thân
em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
Lấy
chồng chẳng biết mặt chồng
Đêm nằm mơ tưởng, nghĩ ông láng giềng
Anh
đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm
tương
Nhớ
ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao!
Trâu
ơi, tao bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với
ta
Cày
cấy vốn nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy, ai mà quản
công...
Sóng
sầm sịch lưng chưng ngoài bể bắc,
Hạt mưa tình rỉ rắc chốn hàng
hiên...
Gió
vàng hiu hắt đêm thanh
Đường xa dặm vắng, xin anh đừng về
Mảnh
trăng đã trót lời thề
Làm chi để gánh nặng nề riêng ai!
Lấy
chồng tử thủa mười lăm
Chồng chê tôi bé, chẳng nằm cùng
tôi
Đến
năm mười tám, đôi mươi
Tối nằm dưới đất, chồng lôi lên
giường
Một
rằng thương, hai rằng thương
Có bốn chân giường, gãy một, còn
ba!...
Con
gà cục tác: lá chanh
Con lợn ủn ỉn: mua hành cho tôi
Con
chó khóc đứng khóc ngồi:
Bà ơi! đi chợ mua tôi đồng riềng.
*
Những thể ca dao truyền thống :
-
Thể phú
"Phú" có nghĩa là trình bày, diễn tả, chẳng hạn như nói
về người, về việc hay vật gì thì trình bày, diễn tả cho người ta hình dung được
người, việc, hay vật ấy. Thí dụ:
Đường
lên xứ Lạng bao xa
Cách một trái núi với ba quãng đồng
Ai
ơi! đứng lại mà trông
Kìa núi Thành Lạc, kìa sông Tam Cờ.
Em
chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ
Bụng anh vẫn thẳng như tờ giấy
phong...
Em
là con gái đồng trinh
Em đi bán rượu qua dinh ông nghè
Ông
nghè sai lính ra ve..
"Trăm lạy ông nghè, tôi đã có
con!".
-
Có con thì mặc có con!
Thắt lưng cho giòn mà lấy chồng
quan.
-
Thể tỉ
Tỉ là so sánh. Ở thể này, câu ca không nói thẳng như ở thể Phú,
song lại mượn cái khác để so sánh, ngụ ý hay gửi gắm một tâm sự gì. Thí dụ :
Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây
Như con chèo bẻo xa cây măng vòi
Gối
mền, gối chiếu không êm
Gối lụa không mềm bằng gối tay em.
Ăn
thì ăn những miếng ngon
Làm thì chọn việc cỏn con mà làm
-
Thể hứng
Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể
là buồn, thấy ngoại cảnh mà có hứng, muốn nói lên nỗi lòng mình, cảnh tình
riêng của mình . Thí dụ :
Trên trời có đám mây vàng
Bên sông nước chảy, có nàng quay
tơ
Nàng buồn nàng bỏ quay tơ,
Chàng buồn chàng bỏ thi thơ học
hành...
Gió đánh đò đưa, gió đập đò đưa,
Sao cô mình lơ lửng mà chưa có chồng...
*
Thơ Lục Bát Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại :
Nguyễn
Can Mộng đã viết trong cuốn Ngạn ngữ phong dao:
"Văn vần
nước ta phôi thai từ ngạn ngữ, rồi đến phong dao/ca dao thì thành điều, thành
chương, có thể ngâm nga được. Văn lục bát, hay song thất sau này đều từ ở đấy cả."
Việc sưu tập
và biên soạn tục ngữ, ca dao, và dân ca ở nước ta chỉ mới được bắt đầu từ khoảng
hai trăm năm trở lại đây .
Hiện nay, bài
thơ lục bát cổ xưa nhất có niên đại rõ ràng, còn lưu giữ lại đến nay là bài
"Cảm tác" của Nguyễn Hy Quang, được sáng tác năm 1674. Bài thơ đó như
sau:
"Bốn
bề cây cối lơ thơ
Thung thăng con cá vật vờ đàn ong
Ngẫm
thay người thật khách song
Nhân tri kinh phật sinh không có lời
Đồng
lần vật đổi sao rời
Một nền trải mấy muơi đời dân gia
Tới
ta rằng của riêng ta
Nào trăm năm trước ắt là của ai
Làm
chi cho vẩn lòng người
Của đời ắt để cho đời phân
minh".
Vào
nửa cuối thế kỉ 18, Trần Danh Án (hiệu Liễu Am) đã sưu tập và biên soạn Quốc
phong giải trào và Nam phong nữ ngạn thi.
Các soạn giả
trên đã ghi chép tục ngữ, ca dao bằng chữ Nôm, rồi dịch ra chữ Nho và chú thích, có ý đem ca dao Việt Nam sánh với
với thơ Quốc Phong trong Kinh Thi của Tàu.
Vào cuối thế
kỉ 19 đầu thế kỉ 20 mới thấy xuất hiện
những sách sưu tập tục ngữ, ca dao viết
bằng chữ Nôm.
Sang đầu thế
kỉ 20 mới có những sách sưu tập tục ngữ ca dao bằng chữ quốc ngữ. Như vậy, có
thể xác quyết rằng: Thơ lục bát Việt Nam bắt nguồn từ trong tục ngữ và ca dao
mà ra.
"Lục"
(sáu), "bát" (tám), hay còn gọi là thể thơ sáu tám (6, 8) ám chỉ độ
dài của hai câu thơ: một câu gồm 6 chữ và một câu gồm 8 chữ. Câu sáu chữ đi trước
và câu tám chữ theo sau. Vần rơi vào chữ thứ sáu của câu tám .
Thí dụ :
Đêm
thu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương
Lối
mòn cỏ nhợt mùi sương
Lòng quê đi một bước đường một đau.
(Kiều -Nguyễn Du)
Thơ lục bát
được coi là gia tài riêng của thi ca Việt, là nguồn cảm hứng thơ đầu tiên và bất
tận qua những lời ru bằng ca dao ngàn đời của mẹ :
Cái
ngủ mày ngủ cho ngoan
Để mẹ đi cấy đồng xa trưa về
Bắt
được con cá rô trê
Tròng cổ mang về cho cái ngủ ăn
*Lục
bát biến thể :
Biến thể trong thơ lục bát là những câu thơ bị đổi cách gieo vần.
Trong thơ
"Lục bát chính thể" , luật “Tứ Trắc Lục Bằng” trong câu 8 được tuân
thủ. (Câu 6 được tự do, linh động hơn, có thể không theo luật này)
Vài
thí dụ về Lục bát chính thể:
Mai
sau dù CÓ bao giờ
Đốt lò hương CŨ, so tơ phím này
Trông
ra ngọn CỎ lá cây
Thấy hiu hiu GIÓ thì hay chị về
Hồn
còn nặng MỘT lời thề
Nát thân bồ LIỄU đền nghì trúc mai.
(Nguyễn Du-Kiều)
Nước
non nặng MỘT lời thề
Nước đi đi MÃI không về cùng non
Nhớ
lời nguyện NƯỚC thề non
Nước đi chưa LẠI, non còn đứng
không
Non
cao những NGÓNG cùng trông
Suối khô dòng LỆ chờ mong tháng
ngày
(Tản Đà -Thề non nước)
Tâu
rằng :-“Cha QUÁT ngày xưa,
Trước khi lâm TỬ dặn dò đinh ninh
Chớ
nên cho QUÁT cầm binh
E rằng hại NƯỚC, thân mình cũng
vong
Trước
làm bại HOẠI gia phong
Sau làm xương TRẮNG máu hồng tuôn
rơi
Việc
quân há PHẢI việc chơi
Xin vua xét LẠI, chớ vời trẻ ranh”
(Thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư)
Vài thí dụ về
sự linh động trong câu 6 : Chữ thứ tư có thể là thanh bằng, đặc biệt khi sử dụng
thủ pháp "Ngắt mạch", kèm theo "Tiểu đối", hoặc "Tiểu
đồng dạng ".
Ví dụ :
Nước
trong xanh, TRỜI trong xanh
Êm êm tiếng hát , bập bềnh thuyền
con
Yêu
nhau đi, YÊU nhau đi
Ngày mai hai đứa biệt ly ngàn đời
Khi
tựa gối, KHI cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày
Tuy vậy hình
thức này không thông dụng, chỉ nên lâu lâu điểm xuyết mà thôi. Nếu lạm dụng, sẽ
đánh mất sự hài hoà, thanh thoát của bài lục bát.
-
Lục bát biến thể : dạng “Tứ Bằng Lục Trắc”
Thay vì “Tứ
Trắc Lục Bằng” như truyền thống lâu đời của Thơ lục bát chính thể, nếu ta đảo ngược luật ấy thành “Tứ Bằng Lục Trắc”,
thì ta sẽ có được một thể Lục bát mới, đó là Lục bát biến thể dạng “Tứ Bằng Lục
Trắc”.
Chữ cuối câu
6 sẽ phải ăn vần với chữ thứ 4 của câu 8
Lục bát biến
thể dạng này ít khi thấy toàn bài, mà chỉ thấy thỉnh thoảng đan xen trong Lục
bát chính thể mà thôi.
- Vài thí dụ
về Lục bát biến thể “Tứ Bằng Lục Trắc”:
Trèo
lên cây bưởi hái Hoa
Bước xuống vườn CÀ , hái nụ tầm
xuân
Nụ
tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay
Ba
đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn
không
Bây
giờ em đã có CHỒNG
Như chim vào LỒNG , như cá cắn câu
Cá
cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thửi nào ra
Mẹ
già ở với nàng DÂU
Đoạn thảm vơi SẦU, con một cậy cha
Mười
phần thương mẹ ở nhà
Chín phần thương vợ còn là thơ
ngây
(Khuyết Danh-Thoại Khanh Châu Tuấn)
Thoắt
thôi vợ nói cùng CHỒNG
Đặng bốn mươi ĐỒNG gặp buổi đúc
chuông
..........................
Âu
là một thái tử ĐÂY
Ban cho nhà NÀY chẳng tiếc làm chi
(Khuyết Danh-Phạm Công Cúc Hoa)
Bảy
năm giao kết Đào viên
Trong nhà chăm chỉ, ngoài thềm
siêng năng
Thạch
Sanh hay lũ hay LAM
Ít ngủ hay LÀM, dậy sớm thức khuya
Lý
gia hưng thịnh mọi bề
Tiền muôn bạc ức đề huề hơn xưa
(Thạch Sanh Lý Thông tân biên)
*LỤC
BÁT THÊM VÀO:
Lục bát thêm
vào còn được gọi đùa là "Lục bát
More" (chữ More nghĩa là thêm vào...) Đó là một thể loại “thật tưởng như
đùa, đùa y như thật”, xuất phát từ Lục bát chính thể, hình thành bằng cách
“thêm vào” mỗi câu một, hai, ba chữ nữa.
Thể loại này
rất thường thấy trong ca dao:
Thí
dụ 1:
Thử
so sánh hai câu sau đây:
-
Lục bát chính thể :
Yêu
nhau MẤY núi cũng trèo
MẤY sông cũng lội, MẤY đèo cũng
qua
-
Lục bát biến thể “thêm vào” (Thơ 6/8 thành thơ 7/10 )
Yêu
nhau TAM TỨ núi cũng trèo
NGŨ LỤC sông cũng lội, THẤT BÁT
đèo cũng qua
*
Thí dụ 2 :
-
Lục bát chính thể :
Em
nhỏ thó, có duyên NGẦM
Khiến anh thương trộm nhớ THẦM bấy
nay
-
Lục bát biến thể “Tứ bằng lục trắc”
Em
nhỏ thó, có duyên NGẦM
Anh phải lòng THẦM đã bấy lâu nay
-
Lục bát "More" Tứ bằng lục trắc :
(Thấy)
em nhỏ thó (lại) có duyên NGẦM
Anh phải lòng THẦM đã bấy lâu nay
-
Lục bát More ngắt câu:
Thấy em nhỏ thó,
Lại có duyên NGẦM
Anh phải lòng THẦM đã bấy lâu nay
*
Thí dụ 3:
-Lục
bát chính thể:
Bước
ngang nhà má tôi QUỲ
Vì thương con má sá GÌ thân tôi
-
Lục bát More:
Bước
ngang nhà má, tay tôi xá, cẳng tôi QUỲ
Vì thương con má sá GÌ thân tôi
-Lục
bát More biến thể ngắt câu:
Bước ngang nhà má
Tay tôi xá
Cẳng tôi QUỲ
Vì thương con má sá GÌ thân tôi
Rõ ràng là nhờ thêm mắm dặm muối mà "Lục bát thêm vào"
nghe lạ tai, thú vị hơn hẳn Lục bát chính thống vậy .
Ta thấy: trong câu 8, nếu chữ thứ 6 là Phù bình thanh (không dấu),
thì chữ thứ 8 phải là Trầm bình thanh (dấu huyền)
Thí
dụ:
Trải
qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà ĐAU đớn
LÒNG
Ngược
lại , nếu chữ thứ 6 là Trầm bình thanh (dấu huyền), thì chữ thứ 8 bắt buộc phải
là Phù bình thanh (không dấu)
Thí
dụ:
Làn
thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu HỜN kém
XANH
*
LỤC BÁT TRẮC VẬN
Từ lâu, thơ Lục bát hầu như tất cả đều là vần bằng.
Tuy vậy, vẫn có thể tìm thấy những thí dụ về "Lục bát trắc vận"
trong kho tàng ca dao Việt Nam, đặc biệt là ca dao phương Nam. Mới nghe qua thấy
có vẻ kỳ kỳ, nhưng có lẽ là Lục bát vần
Trắc thật :
*Thí dụ 1 :
Tò
vò mà nuôi con NHỆN
Ngày sau nó lớn nó QUẾN nhau đi
Tò
vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhận hỡi nhện đi đàng nào?
(Ca dao)
*Thí dụ 2: Thơ dân gian
Môi
xẻ, mũi lân, mắt LỘ
Khắp xứ này không ai NGỘ bằng em
"Lục bát More" Trắc vận :
Môi
thò lõ, lỗ mũi lân, con mắt LỘ
Khắp xứ này không ai NGỘ bằng em
"Lục bát More", Ngắt câu, Trắc vận :
Môi thò lõ
Lỗ mũi lân
Con mắt LỘ
Khắp xứ này, không ai NGỘ bằng em
*Thí dụ 3 : Thơ dân gian
-Lục bát chính thể:
Mũi
xúc xích, miệng chèm BÈM
Làng trên xóm dưới ai THÈM cưới cô
!
-Lục bát Trắc vận:
Miệng
chèm bèm, mũi xúc XÍCH
Có thằng khùng nó rục RỊCH cưới cô
!!!
Lục bát trắc vận trong ca dao chỉ là "của hiếm", và thường
dùng để đùa bỡn thôi, nhưng dù sao vẫn tồn tại thể loại này trong thi ca, đặc
biệt là thi ca truyền khẩu Nam bộ. Có người cho rằng không có cái gọi là “Lục
bát trắc vận”, đó chỉ là một biến thái thêm bớt chữ của thể “Song thất” mà
thôi.
Thí dụ:
Miệng chèm bèm, mũi như xúc XÍCH
Có thằng khùng nó rục RỊCH cưới cô
Con nước lớn mênh mông có hồi con
nước rặt
Phận anh nghèo như cặc nứng nửa
con
(ca dao Nam kì)
* Thơ lục bát hiện đại:
Như vậy,Thơ lục bát luôn được tiếp tục làm mới bởi các thế hệ người
làm thơ Việt Nam.
Có lẽ trường
hợp đáng chú ý hơn cả là nhà thơ Du Tử Lê . Ông tiếp tục thử nghiệm thể loại lục
bát mà thế hệ ông đã bắt đầu từ trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam.
Thơ lục bát đã
được canh tân bởi một số nhà thơ thời Thơ Mới, trên tạp chí "Sáng Tạo"
rồi "Thế Kỷ Hai Mươi", "Văn Học", "Văn",
"Nghệ-Thuật", v.v.
Lục bát được
tiếp tục hiện đại hóa với ngôn ngữ tân kỳ, hình ảnh mới hơn, bất ngờ, cũng như
trong cách dùng chữ, ngắt câu. Khởi xướng bởi Cung Trầm Tưởng (Tình Ca, Lục Bát
Cung Trầm Tưởng), tiếp đó có Sao Trên Rừng (Nguyễn Đức Sơn), Trần Tuấn Kiệt, Trần
Đức Uyển, Hoài Khanh, Kim Tuấn, Hoàng Trúc Ly, ...
- Lục bát Cung Trầm Tưởng:
“Bù
em một tháng trời gần
Đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi
Bù
em góp núi chung đồi
Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang
sơ.
Bù
em xuôi có ngàn thơ
Vẫn nghe trắc trở bên bờ sông
thương
Quên
thôi, bông sẽ phai hường
Mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên
thu
Non
sông bóng mẹ sầu u
Mòn trong ngưỡng cửa, chiều lu mái
sầu.
Thôi
em xanh mắt bồ câu,
Vàng tơ sợi nhỏ xin hầu kiếp
sau...”
(Kiếp Sau, Lục Bát Cung Trầm Tưởng)
- Lục bát Sao Trên Rừng:
“rồi
mai huyệt lạnh anh về
ru nhau gió thổi bốn bề biển xưa
trăng
tà đổ bóng cây thưa
mộng trần gian đã hái vừa chưa
em”
(Tịch Mạc, Lời Ru).
- Lục bát Hoàng Trúc Ly :
“xin
em dừng lại môi mềm
giấc mơ thê thảm bóng chìm đêm sâu
tay
xuôi mười ngón rụng sầu
xa nhau năm tháng cúi đầu nhớ
nhau.
(… )
nhìn
lên cửa khép lầu cao
bóng em chảy xuống vực sâu mắt buồn
về
đêm khuya khoắt nhớ thương
mưa bay trước mặt, tủi hờn giăng
ngang”
(Lá Hoa Duyên, Trong Cơn Yêu Dấu).
Lục bát Du Tử Lê thì dùng lối cắt nát, chấm câu, xuống hàng, bỏ
quên bằng trắc, nhịp thơ 6, 8 đổi theo, v.v.. mà câu tiêu biểu thường được nhắc
tới là :
"tôi Lê.
Lê.
Lê.
Lê nào?"
Câu 6 chấm dứt cuối bài "Tôi Nào?" (trong tập Sông Núi
Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà -Du Tử Lê , 1995).
Với thơ lục bát, Du Tử Lê đã "khủng bố ngôn ngữ", nói
như Bùi Bảo Trúc. Ngoài ra, Du Tử Lê đưa ra quan niệm hoán vị (conversion
concept) với gạch chéo slash/làm phương tiện. Theo đó, nhịp đi của câu thơ được/bị
ngắt lại; tính và chiều đi tới của câu thơ bị/được cởi bỏ để thơ có tự do chuyển
động hai chiều và hoán vị, với ý sau này, ông tạo cơ hội cho người đọc thực sự
trở thành tác giả thứ hai :
"Và,
ngày cù sương:
bay lên /
nắng thâu phế liệu; em truyền nhiễm,
thơ /
(...)
và chiều cù ta: chìm, rơi /
ai /
vai /
bồ tát /
tim /
ngồi ghế sau"
("Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà"-Du Tử Lê)
"... tôi ngồi, lưng mỏi thân
xiêu /
nhủ tôi cơm áo còn nhiều đắng cay
/
tôi ngồi, tôi gọi : Lê ơi /
bỗng nghe tiếng vọng từ đồi nghĩa
trang /
tôi ngồi, tôi ngắm tôi tan,"
("Khi Trở Lại Làm Việc Ở Collins Radio", Thơ Tình Du Tử
Lê).
Bài thơ chấm dứt ở câu sáu và với dấu phẩy.
Nhà thơ Sử Mặc-Hoàng
Xuân Sơn thì theo con đường lục bát mới cộng với lối xử dụng dấu chấm câu hoặc không viết hoa
, đã trở thành thông thường vào cuối thế kỷ:
"Em qua /
em qua /
em qua /
đò giang trắc trở /
em qua được rồi /
em qua tới bợt em ngồi /
tới bờ em đứng khóc /
mùi mẫn /
em"
(Đầu Lệ, Huế Buồn Chi, 1993).
Lục bát Ngu Yên có bài đến gần thơ văn xuôi và như mở đường cho
"Tân Hình Thức", khi ông viết
liên tục cả khổ không xuống hàng:
"Hiểm
hoạ là mặt trăng hư, đêm nào cũng nóng rực như mặt trời, ngày đêm thiêu đốt cõi
đời, tìm đâu thi vị của thời trăng mơ, uổng chàng thi sĩ làm thơ, mắt trăng đổi
lớp bây giờ chuyên viên ..."
(Thời
Hấp Hối, Hoá Ra Nét Chữ Lên Đàng Quẩn Quanh, 1986).
Hoặc ông viết hai câu liên tục như "quên" xuống hàng
(Cha Đặt Tên Con Là Thơ, tr. 11). Câu lục
và câu bát xuống hàng mỗi chữ như rơi rơi (bài Tại Sao Ta Lại Làm Thơ, tr. 10).
Nhà thơ Huy
Tưởng thì viết những bài thơ 14 chữ , tức gồm hai câu lục bát, nhưng mang hình
thức thơ tự do, như muốn nội dung hài-cú với 14 âm-tiết (Hai-ku của truyền thống
Nhật 17 âm-tiết) qua tập thơ "Hỏi Đường Cùng Mây Trắng", xuất bản ở
trong nước và xuất hiện trên tạp chí Hợp Lưu.
Trong khi đó, nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan sau 1975,
ngoài những thử nghiệm thơ luật tam và tứ tuyệt, ông còn làm những bài lục bát
ngắt đoạn khổ ba câu:
"Nhụy
cành em ngậm đã nhiều /
Nhả ra anh thử cắn liều thấu răng
/
Lập
loè hồn vía siêu thăng...".
Lục-bát có khi trở thành" lục-cửu", hoặc các biến thể
khác của 6 và 8.
Có khi vì dùng chữ nước ngoài nên phải giữ số âm mà thiếu số chữ,
hoặc giữ số chữ mà dư số âm, nhưng thường là âm thanh hay chữ cho hợp với lục
bát đọc .
Nguyễn Nam An là một trong những người làm thơ phá luật dạng này:
"Vì
em. Em đó. Là em!
Chạy theo thiên hạ co thêm vui buồn
đêm
nằm một mảnh trăng thuông
Che ngực anh thổi cô đơn ra ngoài
Đóng
cửa giùm một sớm mai
Giữ chân Từ Thức (như) giữ hoài vết
son"
(Đêm-Từ-Thức, TiGi, 2000).
Có thể thấy :
thơ lục bát như bị xâu xé giữa truyền thống và mỹ học hiện đại.
Lục bát vốn
đã được biến thể từ xưa, nay lại được cách tân dưới nhiều hình thức, như : biến thể tự do về chấm câu và xuống hàng
trong cái khuôn tiên-thiên 6-8. Nhịp điệu đa dạng ra, câu sáu thì 1-5, 2-2-2,
2-3-1, 2-4, 3-3, câu tám thì 1-7, 2-2-2-2, 2-4-2, 3-5, 5-3, 4-4, v.v. Âm điệu vẫn
giữ hoặc không giữ, lục bát ba câu, chấm dứt ở câu sáu, v.v.
Kết quả đáng
ghi nhận là : về hình thức có đem lại cái mới cho con mắt, đem lại cách đọc đa
dạng.
Nói chung dù
cách tân như thế nào, nòng cốt vẫn phải là lục bát.
Thật ra, những
cách tân nói trên đã có từ lâu trong lục bát truyền thống, xưa gọi là ngắt nhịp
.
Nhịp thơ là
cái được nhận thức thông qua toàn bộ sự lặp lại có tính chu kỳ, cách quãng, hoặc
luân phiên theo thời gian của những chỗ ngừng, chỗ ngắt và của những đơn vị văn
bản như câu thơ, khổ thơ, thậm chí đoạn thơ.
Nhịp thơ giúp
người nghe, người đọc cảm nhận được ý thơ một cách chính xác hơn.
Thơ lục bát
truyền thống thường ngắt nhịp chẵn là 2/4 (2/2/2, 4/2) , hoặc 4/4 (2/2/4,
2/2/2/2, 4/2/2).
Ví
dụ:
Trời mưa ướt bụi/
ướt bờ
Ướt cây/
ướt lá/
ai ngờ ướt em .
(Ca
dao)
Này chồng/
này mẹ/
này cha
Này là em ruột/
này là em dâu.
(Truyện
Kiều - Nguyễn Du)
Nhưng
đôi khi để nhấn mạnh hay diễn tả những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột,
tâm trạng khác thường, bất định… thì người ta đổi thành nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5…
Ví
dụ:
Người quốc sắc/
kẻ thiên tài
Tình trong như đã/
mặt ngoài còn e
(Truyện
Kiều - Nguyễn Du)
Buồng không/
lặng ngắt như tờ
Dấu xe ngựa/
đã rêu lờ mờ xanh.
(Truyện
Kiều - Nguyễn Du)
Lối ngắt nhịp
này nếu được phô diễn theo lối xuống hàng thì thành "lục bát hiện đại",
không khác?
Nghe nói ông
Nguyễn Tài Cẩn đã chứng minh cặp lục bát có thể biến thành 256 cách phô diễn
khác nhau, tùy cách chuyển vận vần, thanh và nhịp.
Gần đây, ở miền
Bắc xuất hiện "Lục bát Bút Tre", do nhà thơ Bút Tre đi tiên phong, bằng
hình thức “phá cách” về âm vận, trong khi vẫn tuân thủ chặt chẽ luật “Phù Trầm”,
các âm trắc có thể linh động thay thế bằng âm bằng tiệm cận với nó.
Lối "lục
bát phá cách" này chỉ mang tính trào phúng, khôi hài, đả kích, có thể ít
chất thơ nhưng sức lan tỏa lại rất rộng khắp.
Thí
dụ :
(Trích
từ thơ dân gian -Tác giả Khuyết danh)
Đứng xa cứ tưởng ta già
Lại gần mới biết vẫn là ... trẻ
... khô
Mắt HI, môi sứt, mặt RÔ (hí / rỗ)
Cô ơi tui chỉ hơn cô mấy TUỒI (tuổi)
Thuyền đi ngược, nước chảy xuôi
Trăm năm nhớ mãi cái BUÔI ban đầu
(buồi)
Chồng bà mới chết hôm qua
Vừa NĂN, vừa khóc, vừa XÒA, vừa
rên (nắn ... xoa)
Thi đua ta quyết thua đi
Thi đua ta quyết tiến lên hàng đầu
Hàng đầu rồi biết đi đâu
Đi đâu không biết hàng đầu cứ đi.
Chị em du kích giỏi thay
Bắn máy bay Mỹ rơi ngay cửa mình.
Anh đi công tác Pờ lây
Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra
Họp xong anh ghé Buôn Mê
Thuột xong một cái lại về với em
Còn em, em vẫn ở nhà
Cửa mình vẫn mở khách vào khách
ra.
Hoan hô đồng chí Phong Thu
Đêm nằm đồng chí thò cu ra ngoài.
Hoan hô đồng chí Phạm Tuân
Bay vào vũ trụ một tuần về ngay.
Dân còn ăn sắn ăn mì
Bay lên vũ trụ làm gì hở Tuân
Sầm Sơn sóng vỗ dập dồn
Chị em phụ nữ ngửa lồn ra phơi.
Chị em nô nức đánh cầu
Lông bay lả tả trên đầu anh em.
Lục bát Bút
Tre dù làm theo dạng truyền thống, hay phá cách, đều rất hiện đại, vì nó mang đậm
dấu ấn của thời đại sáng tác.
Xưa, cụ Phan
Bội Châu đã làm thơ lục bát bằng chữ Hán, rất mượt mà.
Nay,Trên Internet, có người như Ian Bùi đã thử nghiệm làm thơ lục
bát tiếng Anh, gây được tiếng vang ...
*Lời riêng:
Theo tôi, dù
gì thì thể thơ lục bát truyền thống vẫn là trên cả tuyệt vời, vì nó có khả năng
chuyển tải thi ca hơn hẳn, lại mang tính đặc trưng thơ Việt, ai cũng có thể làm
được.
Vấn đề là ở
người làm thơ có thành công hay không, có “nghề” hay không, thơ có "hồn"
hay không, và thơ lục bát đó có ngôn ngữ riêng, hay chỉ mang hình thức sáu tám.
[Kinh nghiệm cho thấy: làm một bài thơ Lục Bát không khó, nhưng
làm một bài thơ Lục Bát hay, thì khó vô cùng?
Có lẽ nguyên nhân chính là :
- Thơ Lục Bát là thể thơ có nhiều vần bằng. Theo luật thơ lục bát
thì trong mười bốn chữ của một cặp thơ , chỉ có 5 chữ là tiếng trắc. Vì vậy, nếu
không khéo, bài thơ dễ trở nên nghèo nàn về giai điệu và mang vẻ "ê
a" của bài vè.
- Diện địa của một cặp thơ lục bát quá rộng . Trong phạm vi 14 chữ
, người làm thơ dễ có khuynh hướng kể lể dài dòng , dẫn tới việc lạm dụng vai
trò của câu lục mà đẩy đưa , khiến câu thơ trở thành thừa thãi , bài thơ bị
loãng do sử dụng vá víu bốn chữ cuối của câu bát.
Ngoài hai nguyên nhân trên, do đòi hỏi phải gieo cùng vần ở chữ cuối
câu bát, chữ cuối câu lục kế tiếp, rồi chữ thứ sáu của câu bát tiếp theo , khiến
người làm thơ đôi lúc bị lúng túng trong việc chọn chữ , nên dễ rơi vào chỗ chọn
chữ một cách gượng gạo để đáp ứng quy luật. Chỉ cần vài ba chữ gượng gạo cũng đủ
làm hỏng bài thơ lục bát rồi ?
Từ khảo sát trên , ta có thể khắc phục những cái khó trên bằng
cách:
- Cố gắng biến câu sáu thành một câu độc lập , nhằm tránh nguy cơ
câu sáu bị thừa thãi.
- Thỉnh thoảng nên dùng "tiểu đối" trong cả hai câu, đặc
biệt là câu tám. (Tiểu đối là hình thức đối xứng trong một câu thơ).
Theo hình thức này, câu thơ được chia thành hai vế bằng nhau, 3/3
cho câu lục và 4/4 cho câu bát.
Ví
dụ:
Mai
cốt cách/ tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ/ mười phân vẹn mười.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Vầng
trăng ai sẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc/ nửa soi dặm trường.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
- Có lẽ ta nên cố gắng cô đọng bài thơ, tránh khuynh hướng kéo dài
lê thê , không chừng sẽ "rơi vè".
- Có lẽ cũng không nên câu nệ quá đáng về vần, vần chính cũng hay
, mà vần thông cũng tốt, miễn là câu thơ trôi chảy tự nhiên. không bị gò bó,
thơ sẽ hay thôi]
Hiển nhiên,Thi
ca thường đòi hỏi thử nghiệm, tìm tòi, sáng tạo cái mới cái lạ. Thông thường,
người làm thơ cảm nhận một thi hứng nào đó, rồi thể hiện thành lời thơ, hai
phương diện của một thể hiện nghệ thuật-cái Đẹp.
Và theo tôi ,
thơ "hay" , hay "không hay" , thật ra cũng chẳng có khuôn mẫu
nào.
Cái khó cho
nhà thơ có lẽ là : khi phải lập lại phong cách và ngôn từ sẵn có, mà không sáng
tạo gì, không thêm được cái mới, hay không thay đổi gì, hoặc quá tập trung vào
văn bản như một ám ảnh, để rồi đề tài có khi hết chất thơ lúc nào không hay.
Thơ mới, tứ mới,
tâm tình mới, sẽ đưa đến một hay nhiều hình thức mới khác, phù hợp để ta diễn tả
cái thi hứng mới của hôm nay. Như thế, thơ ấy có thể sẽ truyền cảm đến người đọc
cùng thế hệ, cùng thời đại.
Thi ca như là
một khởi đầu chung thân, luân hồi , là một hiện-đại làm lại liên lũy.
Cách tân là
làm sống cái khả năng hiện đại đó, vì hiện đại, nghĩ cho cùng, không hề đối lập
với quá khứ.
Hiện đại là
phổ quát nhưng nếu chỉ phổ quát không
thôi e rằng sẽ giết chết Thơ, vì thơ hôm
nay cũng như thơ mỗi thời, phải có dấu ấn của thời đại ?
Nếu thi ca phải
tham chiếu, minh họa ... , thi ca không thể vươn cao và đi xa.
Nhà thơ Pháp
Valéry cũng nói : "Prenons garde d'entrer dans l'avenir à reculons."
Ý VẬY !
Được đăng bởi
son lu: http://cuongtunhatrang.blogspot.com/2013/02/thu-tim-hieu-tho-luc-bat-viet-nam.html
0 nhận xét:
Đăng nhận xét